Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2015

Lego đã làm gì để ủng hộ bình đẳng giới?


Lego đã làm gì để ủng hộ bình đẳng giới?
Phần lớn phụ nữ không tham gia các lĩnh vực như khoa học và toán, và Lego cũng đang khuyến khích họ như vậy trên trò chơi mô hình.
Xu hướng đàn ông thống trị lĩnh vực khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán đã rất phổ biến ở Mỹ, nhưng không vì bất kì lí do sinh học nào, nhiều chuyên gia nói. Hầu hết các cô gái không được khuyến khích đi theo hướng đó.
Giờ đây công ty đồ chơi lớn nhất thế giới muốn thúc đẩy vấn đề bình đẳng giới một cách nhẹ nhàng, Maia Weinstock cho biết trong một báo cáo gửi tạp chí Scientific American.
Năm ngoái, Lego ra mắt một dòng sản phẩm phổ thông có nhân vật là các nhà khoa học nữ có màu vàng, màu sắc nhân vật biểu tượng của công ty. Ý tưởng trên đến từ trang Lego Ideas, trang web cho phép khách hàng đề xuất ý tưởng những dòng sản phẩm mới cho Lego.
Những ý tưởng này có thể được Lego xem xét biến thành hiện thực nếu thu hút được ít nhất 10.000 ý kiến ủng hộ. Kết quả cuối cùng là bộ trò chơi Viện Nghiên cứu, với bộ ba nhân vật gồm một nhà hóa học, một nhà cổ sinh vật học và một du hành gia.
Dòng nhân vật mới của công ty vừa được ra mắt có các nhân vật giới tính nữ như bác sĩ thú y, nhà đại dương học, kĩ sư hàng không, thợ cơ khí và thành viên đội sửa xe.
Ví dụ, hãy nhìn nhà điều hành Dune Buggy này.
 
Lego cũng đang hướng vào những lĩnh vực cơ khí thể thao như nhân vật trong nhóm kỹ thuật đội đua McLaren/Mercedes.
 

Một chiếc áo jean không chính xác là trang phục làm việc phổ biến của bác sĩ, nhưng nhân vật bác sĩ thú y vẫn là biểu tượng đại diên cho ngành bác sỹ thú y.
 
Sau đó là nhà thám hiểm biển sâu của Lego, gợi lại hình ảnh nhà sinh học hải dương nổi tiếng Sylvia Earle.

 
Lego Ideas cũng đã thực hiện một phiên bản nhân vật cho bộ trò chơi Thuyết Big Bang, 2 trong số các nhân vật chính là nhà khoa học, một người là nhà vi trùng học và người kia là nhà thần kinh học. Thiết kế trên vừa được bán vào đầu tháng 8 vừa qua.
 
Phải thừa nhận rằng, Lego vẫn còn phải làm nhiều việc hơn nữa trước khi đạt được bình đẳng giới trên tổng thể các nhân vật. Dù nhìn chung, công ty quả thật có sản xuất nhiều nhân vật nữ hơn, chúng thường bị hạn chế ở các nhân vật không có ngành nghề rõ ràng, như là dòng sản phẩm nhân vật Friends của Lego.
Nhưng sự tương tác nhờ Lego Ideas có thể giúp sửa chữa thiếu sót đó.

Chuyện tình ba chàng tên Linh nổi tiếng tại Việt Nam

1. Hoài Linh và chuyện tình với người vợ bí ẩn
Hoài Linh là người nổi tiếng thân thiện, gần gũi, anh cũng rất chân thực, thẳng thắn khi chia sẻ mọi điều với khán giả trên sân khấu. Tuy nhiên, danh hài lại rất kín tiếng trong chuyện tình cảm, đời sống riêng tư. Chuyện gia đình, vợ chồng, con cái của Hoài Linh vẫn luôn là ẩn số với khán giả. Có lẽ đây là điều duy nhất anh muốn giữ lại cho riêng mình.
hoai_linh-blogtamsuvn
Hoài Linh rất kín tiếng trong chuyện tình cảm, đời tư.
Chỉ sau khi chia tay với vợ cũ, những thông tin ít ỏi về vợ anh mới được công chúng biết đến. Vợ Hoài Linh tên là Thanh Hương, một người phụ nữ có nhan sắc, quê ở Bến Tre. Hai người quen nhau trong một lần anh từ Mỹ về Việt Nam thăm nhà, tình cờ gặp nhau tại quán karaoke. Nhiều lần trở về sau đó, nam danh hài thường đến những địa điểm Thanh Hương hay tới vì muốn gặp lại cô. Cả hai bén duyên và quyết định tiến đến hôn nhân. 
Tuy là người nổi tiếng nhưng anh chưa một lần tiết lộ về vợ trước công chúng cũng như xuất hiện cùng vợ tại các sự kiện. Nhan sắc người vợ ấy chỉ một lần duy nhất công chúng được biết đến một cách mờ ảo qua bức ảnh Dương Triệu Vũ – em trai Hoài Linh chia sẻ. Khi đó, Dương Triệu Vũ nói chuyện với bố ở bên Mỹ qua mạng và vô tình để lộ bức ảnh cưới của Hoài Linh treo trên tường phía sau.
hoailinh-2-dspl
Bức ảnh cưới hiếm hoi của vợ chồng Hoài Linh vô tình được Dương Triệu Vũ tiết lộ khi nói chuyện với bố.
 
Hoài Linh chỉ nhắc đến một nửa của mình với những lời ca ngợi: “Cô ấy hy sinh cho tôi rất nhiều… Đó là người rất chịu thương, chịu khó với tôi. Vợ tôi sống đơn giản, ít trang điểm”. Danh hài chia sẻ, vợ anh không phải là người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật nhưng thông cảm cho chồng và đặt niềm tin tưởng tuyệt đối.
Sau 14 năm chung sống, Hoài Linh và vợ đã chia tay, anh không nhắc nhiều đến chuyện quá khứ, người cũ và muốn mọi việc trôi qua một cách nhẹ nhàng, tiếp tục cống hiến cho công chúng.
2. Chế Linh và "tình sử" với 4 người vợ
Là ca sĩ nổi tiếng của dòng nhạc vàng nồng nàn, tình cảm, Chế Linh luôn tâm niệm việc giữ tròn đạo nghĩa vợ chồng. Tuy nhiên, đời chẳng như ý khi hoàn cảnh khiến ông 4 lần phải làm chú rể.
Năm 21 tuổi, ông kết hôn với người vợ đầu tiên. Lúc đó vợ ông vẫn còn đang đi học còn Chế Linh đã bắt đầu tham gia biểu diễn. Người vợ đầu đã giúp đỡ ông bằng việc nuôi con và không cản trở sự nghiệp của ông. Chế Linh sống với vợ cả trong hơn 4 năm, có 5 con thì chia tay. Nguyên nhân sự đổ vỡ này là do Chế Linh đã phải lòng em vợ.
chuyen-kho-tin-ve-4-lan-lay-vo-cua-ong-vua-nhac-vang-che-linh-hinh-anh-1
Chế Linh chia tay với người vợ cả do phải lòng em vợ.
Tuy nhiên, chuyện tình của Chế Linh và người vợ thứ 2 cũng chỉ kéo dài 3 năm với sự ra đời của 4 đứa con rồi “đường ai nấy đi”. Chế Linh cho biết cô vợ thứ 2 không làm điều gì khiến ông phải phiền lụy nhưng vẫn phải quyết định chia tay.
“Gia đình vợ có hỏi tôi tại sao lại chia tay cô ấy, tôi nói rằng đó là vì máu mủ. Nếu cô em làm buồn tôi, tôi bỏ cô em lấy cô chị thì được, nhưng bây giờ cô chị làm phiền tôi, tôi bỏ chị lấy em trẻ hơn thì xã hội sẽ lên án tôi rất nặng, thành thử tôi phải bỏ cả hai, dù rất đau lòng,” Chế Linh cho biết.
Người vợ thứ 3 của Chế Linh là Thúy Hằng. Bị gia đình Thúy Hằng phản đối vì "tình sử" dày đặc, Chế Linh đã "bắt cóc" cô gái trong vòng 14 ngày rồi mới cùng cô dạo phố gần nhà. Chế Linh đã bị tố cáo là dụ dỗ cô gái trẻ mới 17 tuổi. Tuy nhiên, người chú của Thúy Hằng đã lo giúp giấy tờ để hai người được công khai mối quan hệ.
chelinh-4205-1392963177
Người vợ thứ 3 của Chế Linh là Thúy Hằng. Cả 2 bất chấp sự phản đối của gia đình để sống cùng nhau.
Dù trải qua nhiều khó khăn mới đến được bên nhau, không lâu sau Thúy Hằng tự tìm tới cái chết. Cô để lại cho Chế Linh dòng chữ từ biệt: “Em ra đi để anh còn mãi trong tim em và em cũng còn mãi trong tim anh”. Nguyên nhân khiến người vợ thứ 3 tự sát, theo Chế Linh là do "sự khủng hoảng về căn bệnh suyễn đã làm Hằng không còn tỉnh táo".
Vẫn còn ngần ngại chuyện tình duyên trước cái chết của cô vợ thứ 3, nhưng Chế Linh cũng không khỏi xao động trước những cô gái gần nhà, Vương Nga. Hai người kết hôn vào cuối năm 1975.
Mọi hoạt động của Chế Linh sau khi kết hôn lần thứ 4 cũng đều có sự tham gia của bà Vương Nga. Làm vợ Chế Linh năm 18 tuổi, bà đã phải chịu nhiều thiệt thòi vì người chồng qua 3 lần đò và hơn chục đứa con lớn nhỏ. Để bày tỏ tình yêu và sự biết ơn, Chế Linh đã viết tặng vợ ca khúc Xin yêu tôi bằng tất cả tình người.
chuyen-kho-tin-ve-4-lan-lay-vo-cua-ong-vua-nhac-vang-che-linh-hinh-anh-5
Chế Linh và người vợ thứ 4, bà Vương Nga.
Chế Linh cho biết, ngay cả khi đã cưới vợ thứ 4, vẫn có rất nhiều phụ nữ tìm tới xin làm người tình nhưng ông đều bỏ qua vì yêu bà Vương Nga. Qua hơn 40 năm chung sống, bà trở thành người phụ nữ có cuộc sống hôn nhân lâu dài nhất với danh ca nhạc vàng tài năng.
3. Quyền Linh và 2 mối tình sâu đậm
Quyền Linh hiện là một trong những MC đắt show nhất nhì Vbiz, một nam diễn viên quen mặt xuất hiện dày đặc trên truyền hình và có một gia đình hạnh phúc, giàu có khiến nhiều người ngưỡng mộ. Tuy nhiên, để có được thành công, hạnh phúc như ngày hôm nay, anh đã trải qua không ít khó khăn, vất vả, chuyện tình cảm cũng thăng trầm, đẫm nước mắt.
ava-bf09c
Quyền Linh cũng từng trải qua cuộc sống nghèo khổ và những mối tình đẫm nước mắt.
Trước khi đến với người vợ hiện tại, Quyền Linh đã trải qua mối tình 10 năm sâu đậm với Á hậu Kim Chi. Cả 2 được xem là cặp đôi đẹp của làng giải trí, những tưởng họ sẽ kết hôn và tiếp tục sánh bước cùng nhau nhưng chuyện tình đẹp đó đã kết thúc trong đau đớn. 
Khi nhắc về mối tình cũ, Quyền Linh cũng cảm thán: "Tại sao lúc mình chưa có gì hết thì cô ấy thương mình? Nhưng chuẩn bị ngóc đầu lên được thì lại chia tay?" và ám ảnh miệng lưỡi người đời nói về anh lúc đó: "Trời ơi, lấy thằng đó làm gì để sống, mặc dù nó nổi tiếng, nhưng nó không có nhà, không có xe, lại có một đống em út dưới quê...".
55186744-thaohpchilinh
Quyền Linh đã có mối tình 10 năm sâu đậm với Kim Chi nhưng cuối cùng cũng kết thúc trong đau đớn. Hiện tại, 2 người vẫn là bạn bè, đồng nghiệp và đều đã tìm được hạnh phúc cho riêng mình.
Sau khi chia tay với Kim Chi, Quyền Linh mới có cơ hội gặp được người bạn đời Dạ Thảo dịu dàng và chăm lo kĩ càng cho gia đình như bây giờ. Vợ Quyền Linh cũng giống như chồng đều đi lên từ nghèo khó nên cả hai có sự đồng cảm rất lớn. Dạ Thảo luôn là chỗ dựa tinh thần vững trắc cho Quyền Linh, tạo cho anh cảm giác yên bình mỗi khi trở về nhà sau những giờ làm việc mệt mỏi. 
20140429090444-5-1-quyen-linh-5a34c-26093
Quyền Linh hiện đang có cuộc sống hạnh phúc bên vợ và 2 cô công chúa nhỏ.

Điểm chuẩn Đại học 2015 của 24 trường Đại Học

Báo điện tử VTC News sẽ liên tục cập nhật điểm chuẩn chính thức tất cả các trường đại học để thí sinh, phụ huynh nắm rõ. Đến ngày 22/8, 24 trường đại học, cao đẳng đã công bố điểm chuẩn chính thức năm 2015.

HV Báo chí và Tuyên truyền công bố điểm trúng tuyển ngành Báo chí. Điểm chuẩn các chuyên ngành dao động từ 19 đến 23 điểm. Cụ thể:

Báo in                            D320101       602      21.5     20.0     21.0  
Ảnh báo chí                    D320101       603      21.0    19.0     19.5 
Báo phát thanh               D320101       604      21.0     20.0     20.0  
Báo truyền hình              D320101       605      23.0     21.5     21.5
Quay phim truyền hình    D320101      606      19.5     19.0     19.0 
Báo mạng điện tử            D320101      607      22.0      20.5     20.5  
Báo chí đa phương tiện   D320101      608      22.0      21.0     21.0 

Đại học Lạc Hồng có điểm bằng ngưỡng xét tuyển đầu vào của Bộ GD&ĐT (đại học: 15, cao đẳng: 12).

Đại học Đông Đô xét tuyển theo phương thức xét học bạ. 

điểm chuẩn đại học

Đại học Phương Đông vừa công bố điểm trúng tuyển theo hai hình thức xét điểm thi THPT và kết quả học bạ. Ở hình thức xét điểm thi THPT, ngành có điểm chuẩn cao nhất là Kiến trúc với 20 điểm. Các ngành còn lại đều ở mức 15 điểm.

Đại học Thành Tây công bố điểm trúng tuyển vào trường theo hai hình thức xét điểm thi THPT và xét học bạ. 

Chiều nay, 21/8, Hội đồng tuyển sinh trường Đại học Công Nghệ Thông Tin - ĐHQG-HCM thông báo điểm chuẩn trúng tuyển, kỳ Tuyển sinh Đại học chính quy năm 2015.

Theo đó, điểm chuẩn trúng tuyển cho các tổ hợp môn thi Toán-Lý-Hóa và Toán-Lý Anh đối với các thí sinh có trung bình cộng của điểm trung bình 5 học kỳ (HK1, HK2 lớp 10; HK1, HK2 lớp 11; HK1 lớp 12) từ 6,5 trở lên và có hạnh kiểm học kỳ 1 lớp 12 đạt từ loại khá trở lên cho học sinh phổ thông, khu vực 3.

Cao đẳng Công nghệ Thông tin TP HCM vừa công bố điểm trúng tuyển vào trường. Theo đó, điểm trúng tuyển bằng ngưỡng đảm bảo chất lượng đầu vào là hệ 12. 

Đại học Công nghiệp Việt Trì công bố điểm chuẩn và danh sách thí sinh trúng tuyển vào trường.

Đại học Bình Dương cũng vừa công bố điểm trúng tuyển hệ đại học, cao đẳng bằng ngưỡng điểm tối thiểu với đại học: 15 điểm, cao đẳng: 12 điểm.

Trường ĐH Thăng Long vừa công bố danh sách thí sinh trúng tuyển nguyện vọng 1 vào trường năm 2015. Theo đó, trường cũng công bố tuyển nguyện vọng bổ sung đợt 1 với điểm xét tuyển nguyện vọng bổ sung từ 17 đến 22 điểm.

Cũng trong chiều 21/8, Trường ĐH dân lập Văn Lang đã công bố điểm trúng tuyển vào các chuyên ngành khác nhau của trường. Theo đó, điểm chuẩn của các ngành dao động từ 15-24 điểm.

Điểm trúng tuyển ĐH Ngoại ngữ - Tin học TP. HCM từ 15,25 đến 26,75

Chiều 21/8, Hội đồng tuyển sinh Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP. HCM thông báo điểm chuẩn trúng tuyển năm 2015. Theo đó, ngành Ngôn ngữ Anh có điểm chuẩn cao nhất với 26,75. Điểm chuẩn thấp nhất vào trường là khối A và khối D với 15,25 điểm.

Ngay sau khi hạn nộp hồ sơ xét tuyển đợt 1 kết thúc, ĐH Tài chính Ngân hàng HN công bố thí sinh trúng tuyển vào trường. Theo đó, có 742 thí sinh trúng tuyển vào các ngành đào tạo của trường.

Ngày 21/8, Đại học Kinh tế Tài chính TP.HCM chính thức công bố điểm chuẩn vào các ngành của trường năm 2015.


Điểm chuẩn của Đại học Kinh tế Tài chính TP.HCM bằng mức điểm sàn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Điểm chuẩn chính thức với đại học là 15 điểm, với cao đẳng là 12 điểm cho tất cả các ngành nghề.

Sau khi trường Đại học Kinh tế Tài chính TP.HCM công bố điểm chuẩn NV1, nhà trường cũng thông báo nhận hồ sơ xét tuyển nguyện vọng bổ sung đợt 1 với 660 chỉ tiêu hệ đại học (15 điểm) và 180 chỉ tiêu hệ cao đẳng (12 điểm). Thời gian nhận hồ sơ từ 25/8 - 15/9, công bố kết quả ngày 16/9.
Điểm chuẩn chính thức vào Đại học Công nghệ TP.HCM bằng mức điểm sàn của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Điểm chuẩn chính thức vào Đại học Công nghệ TP.HCM bằng mức điểm sàn của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Điểm chuẩn vào Đại học Công nghệ TP.HCM năm 2015 bằng mức điểm sàn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Điểm chuẩn đại học là 15 điểm, cao đẳng là 12 điểm

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015

Binh Pháp Tôn Tử và 36 kế sách – Tam thập lục kế

Tên sách : Binh Pháp Tôn Tử và 36 kế sách – Tam thập lục kế
Tác giả : Tôn Tử

Ba mươi sáu kế (Tam thập lục kế hay Tam thập lục sách) là một bộ sách tập hợp 36 sách lược quân sự của Trung Quốc cổ đại, ba mươi sáu kế bắt đầu xuất hiện từ thời Nam Bắc triều và tới thời nhà Minh thì được tập hợp thành sách.
Tôn Tử nói: Chiến tranh là đại sự của quốc gia, quan hệ tới việc sống chết của nhân dân, sự mất còn của nhà nước, không thể không khảo sát nghiên cứu cho thật kỹ. Cho nên, phải dựa vào năm mặt sau đây mà phân tích, nghiên cứu, so sánh các điều kiện tốt xấu giữa hai bên đối địch, để tìm hiểu tình thế thắng bại trong chiến tranh:

Một là Đạo:

Đạo là chỉ việc chính trị, đạo nghĩa, phải làm cho nguyện vọng của dân chúng và vua nhất trí với nhau, đồng tâm đồng đức. Có như vậy, trong chiến tranh mới có thể bảo nhân dân vì vua mà chết, vì vua mà sống, không sợ hiểm nguy.

Hai là Thiên:

Thiên là thiên thời, nói về ngày đêm, trời râm trời nắng, trời lạnh trời nóng, tức tình trạng về khí hậu thời tiết.

Ba là Địa:

Địa là địa lợi, nói về đường sá xa gần, địa thế hiểm yếu hay bằng phẳng, khu vực tác chiến rộng hẹp, địa hình phải chăng có lợi cho tiến công, phòng thủ, tiến tới, thối lui.

Bốn là Tướng:

Tướng là tướng soái, tức nói về tài trí, uy tín, lòng nhân ái, lòng can đảm, sự uy nghiêm của người tướng.

Năm là Pháp:

Pháp là pháp chế, nói về tình trạng tổ chức, biên chế, sự quy định về hiệu lệnh chỉ huy, sự phân chia chức quyền của tướng tá, sự cung ứng vật tư cho quân đội và chế độ quản lý…
Tình huống về năm mặt nói trên, người tướng soái không thể không biết. Chỉ khi nào hiểu rõ và nắm chặt được những tình huống đó thì mới có thể giành được sự thắng lợi. Không thật sự hiểu rõ và nắm chắc được thì không thể đắc thắng. Cho nên phải từ bảy mặt sau mà tính toán, so sánh những điều kiện đôi bên giữa địch và ta để tìm hiểu tình thế thắng bại trong chiến tranh. Tức là phải xem xét:
  • Vua bên nào có nền chính trị được lòng dân hơn?
  • Tướng soái bên nào có tài năng hơn?
  • Thiên thời địa lợi bên nào tốt hơn?
  • Pháp lệnh bên nào được quán triệt hơn?
  • Thực lực quân đội bên nào mạnh hơn?
  • Binh sỹ bên nào được huấn luyện thành thục hơn?
  • Thưởng phạt bên nào nghiêm minh hơn?
Căn cứ vào những điều đó, ta có thể tính toán mà biết trước được ai thắng ai thua. Nếu chịu nghe mưu kế của ta, để cho ta chỉ huy tác chiến thì chiến tranh có thể thắng lợi, ta sẽ ở lại; Nếu không chịu nghe mưu kế của ta, cho dù có dùng ta để chỉ huy tác chiến, chiến tranh tất nhiên bị thất bại, ta sẽ rời đi (nguyên tác “Tướng thinh ngã kế, dụng chi tất thắng, lưu chi; tướng bất thinh ngã kế, dụng chi tất bại, khứ chi“).
Nếu kế sách có lợi và được chấp thuận, còn phải tìm cách tạo ra tình thế có lợi để làm điều kiện phụ trợ bên ngoài cho việc tiến hành chiến tranh. Thế, tức là căn cứ vào tình huống phải chăng có lợi để mà có hành động tương ứng. Dùng binh đánh giặc là hành động dối trá (nguyên tác: “Binh giả, quỷ đạo giã” là câu cửa miệng rất nổi tiếng của các vị trí tướng). Thông thường, nếu có thể tấn công thì giả như không thể tấn công, muốn đánh như giả như không muốn đánh, muốn hành động ở gần nhưng giả như muốn hành động ở xa, muốn hành động ở xa nhưng lại giả như muốn hành động ở gần. Lấy lợi mà dụ kẻ tham, chiến thắng kẻ loạn, phòng bị kẻ có thực lực, tránh kẻ thù mạnh, khiêu khích kẻ hay giận dữ. Địch khinh thường thì làm chúng thêm kiêu, địch nhàn hạ thì làm chúng vất vả, địch đoàn kết thì làm chúng ly tán. Tấn công kẻ thù lúc chúng không phòng bị, hành động khi chúng không ngờ tới (nguyên tác: “Công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý“).
Tất cả những điều nói trên đều là sự khôn khéo để thủ thắng của nhà quân sự, nhưng lại không thể quy định trước một cách máy móc. Phàm trước khi khai chiến, đoán được thắng là do tính toán đầy đủ. Trước khi khai chiến mà đoán không thắng là do tính toán không chu đáo. Tính nhiều hơn tính ít, huống hồ không tính toán gì. Quan sát đủ các mặt đó, ai thắng ai bại có thể đoán trước được.
Ngày nay khi nhắc tới 36 kế sách trong Binh Pháp Tôn Tử thì hầu hết chúng ta đều liên tưởng qua lĩnh vực Quản lý và Marketing. Các nhà lãnh đạo, chiến lược gia, chuyên gia marketing đều phải am hiểu các kế sách này để phục vụ cho công việc của mình. Giá trị về mặt thực dụng của 36 kế sách này vẫn tồn tại như một triết lý sống vĩnh cửu.
Nghe sách nói Online Hoặc đọc toàn bộ 36 kế phía dưới:
Bài viết này sẽ giới thiệu các khái niệm cô đọng về từng “mưu kế“, “giải nghĩa” và “điển cố” (nghĩa là những tích truyện xưa (cũng gọi là điển tích)). Trong Tam Thập Lục Kế (Tôn Tử binh pháp) cũng được chia ra thành 6 nhóm chiến kế khác nhau, đó là:
  1. Thắng Chiến Kế
  2. Địch Chiến Kế
  3. Công Chiến Kế
  4. Hỗn Chiến Kế
  5. Tịnh Chiến Kế
  6. Bại Chiến Kế

Thẳng Chiến Kế

Kế Man thiên quá hải

+ Giải nghĩa: Giấu trời qua biển, lợi dụng sương mù để lẩn trốn
+ Điển cố: Gia Cát Lượng dùng một biến thể là kế Thuyền cỏ mượn tên để lừa lấy tên của Tào Tháo trong trận Xích Bích.
+ Diễn giải:
– Kế “Man thiên quá hải” là lợi dụng lúc trời sương mù mà lẩn trốn, vượt qua hay hành động ngay trong lúc sương mù.
+ Man thiên, trời u ám không phải hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi như một quẻ trong Dịch lý đã nói. Man thiên, không thể ngồi đợi nó tới như sương mù do thời tiết thiên nhiên, mà phải tạo ra nó. Kế “Man thiên” đem áp dụng thực hiện được cả hai mặt: tiêu cực lẫn tích cực. Tích cực là đem ánh sáng đến cho một tình thế mờ mịt. Tiêu cực là lẩn tránh một tai họa, là lợi dụng cơ hội sơ hở của địch để thoát bí.
– Ở trận Xích Bích, Khổng Minh đã giải quyết vấn đề thiếu tên bắn cho các cung thủ bằng cách lấy mười chiếc thuyền lớn chất đầy rơm tạc hình thù giống một đội binh lính, đợi lúc trời sương mù, âm thầm đến trại Tào Tháo nổi trống la hét làm như tấn công. Tào sợ ngụy kế, không dám xông ra, chỉ bắn tên như mưa vào các thuyền rơm. Bằng một đêm đánh trống reo hò, không chết một người, Khổng Minh đã lấy được của Tào Tháo cả trăm ngàn mũi tên.

Vây Ngụy cứu Triệu

+ Giải nghĩa: Để cứu nước Triệu thì cần mang quân vây nước Ngụy
+ Điển cố: Thời Chiến Quốc, Bàng Quyên đem quân nước Ngụy tấn công nước Triệu rất gấp. Tôn Tẫn, bạn học cũ của Bàng Quyên, bày kế cho nước Tề đem quân vây nước Ngụy, y rằng Bàng Quyên phải kéo quân về giải vây, nước Triệu được cứu.

Tá đao sát nhân

+ Giải nghĩa: Mượn dao giết người, mượn tay người khác để giết kẻ thù
+ Điển cố: Thời Tam Quốc Tào Tháo ghét Nễ Hành tính tình ương bướng không chịu khuất phục bèn cử ông ta đến chầu Lưu Biểu. Quả nhiên Nễ Hành làm Lưu Biểu tức giận rồi bị giết.
+ Diễn giải:
– Kế “Tá đao sát nhân” là mượn dao để giết người, mượn tay người khác để giết kẻ thù của mình.
– Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Sát nhân bất kiến huyết, kiến huyết phi anh hùng“. (Giết người không thấy máu, thấy máu không anh hùng).
– Trên đời dĩ nhiên chưa có kẻ nào chỉ giết người mà thành anh hùng, nhưng cũng hiếm có tay anh hùng nào không giết người. Điểm khác nhau không ở có hay không, mà ở chỗ thông minh hay ngu xuẩn. Tào Tháo mượn Lưu Biểu giết Nễ Hành, mượn lòng quân giết Dương Tu rồi lại được làm cái việc mèo già khóc chuột, thật đáng kể là một tay thông minh, gian hùng.

Dĩ dật đãi lao

+ Giải nghĩa: Lấy nhàn để đối phó với mỏi mệt
+ Điển cố: Trong Trận Phì Thủy, Phù Kiên đem một triệu quân tấn công nhà Tấn. Tuy nhiên Tạ An, Tạ Huyền nắm vững tinh thần Dĩ dật đãi lao nên dùng quân Tấn ít hơn nhưng tinh nhuệ, có trật tự, được nghỉ ngơi, đánh cho Phù Kiên đại bại.
+ Diễn giải:
– Kế “Dĩ dật đãi lao” là lấy sự thanh thản để đối phó với hấp tấp, nhọc nhằn; dưỡng sức mà đợi kẻ phí sức. Kế này viết ở trong thiên “Quân Tranh” của bộ “Tôn Tử Binh Pháp“: “Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi mệt” nghĩa là trên chiến thuật phải tìm nắm trước địa vị chủ động để ứng phó với mọi tấn công của địch. Cũng có ý nói nên chuẩn bị chu đáo, dễ dàng lấy cái thế bình tĩnh xem xét tình hình biến hóa mà quyết định chiến lược, chiến thuật. Đợi địch mỏi mệt, tỏa chiết bớt nhuệ khí rồi mới thừa cơ xuất kích.
– Tôn Tử gọi thế là: “Ẩn sâu dưới chín từng đất, hành động trên chín từng trời“.
– Sử dụng sách lược này đòi hỏi thái độ tuyệt đối trầm tĩnh ứng biến, đo được ý kẻ thù, hoàn cảnh kẻ thù, thực lực kẻ thù. Nếu thời cơ chưa chín thì đứng yên như trái núi. Khi cơ hội vừa tới thì lập tức lấp sông, chuyển bể. Tư Mã Ý ngăn Gia Cát Lượng ở Kỳ Sơn, Chu Du phóng hỏa tại Xích Bích, Tào Tháo đại phá Viên Thiệu nơi Quan Độ, Tạ Huyền đuổi Bồ Kiên ở Phi Thủy,.. Tất cả đều lấy ít đánh nhiều, thế kém vượt thế khỏe. Tất cả đều là kết quả sử dụng tài tình sách lược “Dĩ dật đãi lao”.

Sấn hỏa đả kiếp

+ Giải nghĩa: Tranh thủ nhà cháy mà đánh cướp, lợi dụng lửa để hành động
+ Điển cố: Trước trận Xích Bích, Lưu Bị chỉ là một lãnh chúa nhỏ nắm trong tay một thành Tương Dương người thưa quân ít. Lợi dụng thất bại của Tào Tháo ở Xích Bích, Lưu Bị tung quân chiếm Kinh Châu rồi từ đó phát triển thế lực ngang bằng với Tào Tháo, Tôn Quyền.
+ Diễn giải:
– Kế “Sấn hỏa đả kiếp” là lợi dụng lúc loạn để thao túng, lúc tình hình rối ren mà sắp xếp theo ý muốn.
Có hai loại “Sấn hỏa đả kiếp”: Một là theo lửa để mà đánh cướp. Hai là chính ta phóng hỏa mà đánh cướp. Theo lửa tức là thừa lúc người ở trong cơn nguy biến mà ta quấy hỗn loạn thêm. Phóng hỏa tức là chính ta gây ra sự hỗn loạn mà thực hiện theo ý muốn của ta. Theo lửa hay phóng hỏa cùng đi chung vào một mục đích là đánh địch và đoạt của địch để tạo cơ hội cho ta. Theo lửa thì dựa vào thời cơ sẵn có. Phóng hỏa thì tự ta tạo ra thời cơ.
– Không thể phê phán theo lửa hay phóng hỏa, cái nào hay, cái nào dở, cái nào tốt, cái nào xấu, vì cả hai giống như một sự biến ảo giữa không khí và nước.
– Trong sử sách, người ta thấy tay phóng hỏa giỏi là Trương Nghi. Một mình Trương Nghi đã phá tan thế hợp tung bằng cách dối Tề, lừa Triệu, dọa Ngụy, thuyết Yên, bịp Sở. Trương Nghi thật là con người có cái lưỡi bằng lửa thiêu đốt cả sáu nước, dựng thành cơ nghiệp thống nhất cho nhà Tần.
– Khổng Minh tuy là một nhà chính trị lỗi lạc tài tình, nhưng cái thế của ông ngay từ đầu chỉ là cái thế phải theo lửa để gây vốn: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh chạy đến cùng đường, Khổng Minh đành tính kế nương nhờ Tôn Quyền rồi ăn theo cuộc chiến tranh Nam – Bắc, ăn theo trận Xích Bích để cướp Kinh Châu. “Sấn hỏa đả kiếp” đòi hỏi một khả năng hành động mau lẹ như con ó bắt mồi.

Thanh Đông kích Tây

+ Giải nghĩa: Giương Đông kích Tây, vờ đánh một hướng nhưng thực chất là đánh hướng ngược lại
+ Điển cố: Sau trận Xích Bích, Gia Cát Lượng cho quân đốt lửa trong đường hẻm Hoa Dung để Tào Tháo nghi ngờ rằng quân Lưu Bị dùng kế giương Đông kích Tây rồi chọn chính đường Hoa Dung để rơi vào bẫy của quân Quan Vũ.
+ Diễn giải:
– Kế “Dương đông kích tây” là reo hò giả vờ như thật sự đánh vào phía Đông, nhưng chủ yếu lại đánh vào phía Tây. Trong tất cả mọi vấn đề của xã hội, từ chiến trường, thương trường, chính trường cho đến tình trường; nếu muốn điều này nhưng lại giả làm điều kia, nói điều này mà làm điều nọ, ấy là “Dương đông kích tây” vậy.
– Kế này mờ ảo vô song. Nó rất khó biết, khó đoán, bị đánh bất ngờ. Kế này nhằm chuyển mục tiêu để lừa dối đối phương, khiến cho địch sơ ý, lừa lúc bất ý tấn công kẻ không chuẩn bị.
+ Có nhiều cách thức để thực hiện kế này, như:
– Tạo tin đồn.
– Làm rối tai rối mắt địch.
– Buộc đối phương lo nhiều mặt.
– Mê hoặc ý chí của địch.
– Nghi binh.
– Làm phân tán lực lượng đối phương.
– Làm yếu lực lượng đối phương, lực lượng phòng vệ địch.
– Nguyên tắc của “ Dương đông kích tây” là bí mật và chủ động. Bị động coi như phải chịu sự khống chế của địch. Điều kỵ khi dùng kế ” Dương đông kích tây” là để lộ cơ. Lộ cơ là mất hết khả năng phòng bị, chuẩn bị. Dù là trên chiến trường, thương trường hay chính trường cũng đều phải giữ bí mật và nắm được thế chủ động.

Địch chiến kế

Vô trung sinh hữu

+ Giải nghĩa: Không có mà làm thành có
+ Điển cố: Trong Trận Phì Thủy, để khỏa lấp sự chênh lệch lớn về quân số, Tạ An, Tạ Huyền tung quân Tấn tấn công sớm lực lượng quân Tần của Phù Kiên để tạo ra cảm giác rằng quân Tấn đông đảo không kém gì quân Tần, lại gửi thư cho Phù Kiên để nghị lui quân Tần để Tấn sang sông, quyết chiến một trận. Quân Tần trong khi lui quân vì hỗn loạn nên đội hình tan rã, giẫm đạp lên nhau mà chết rất nhiều (Phong thanh hạc lệ, Thảo mộc giai binh: tưởng tiếng gió, tiếng hạc, cỏ cây là quân Tấn đang tiến công).
+ Diễn giải:
– Kế “Vô trung sinh hữu” là từ không mà tạo thành có.
– Thiên hạ không loạn, trật tự không rối thì làm gì có anh hào xuất lộ! Bởi lẽ đó, những anh hào thường được gọi là kẻ “chọc trời khuấy nước“. Mục đích của khuấy nước là làm rối beng sự việc lên để dễ bề thao túng. Thủ đoạn của khuấy nước là gây tiếng tăm, tung tiếng đồn, gây xáo trộn rồi dựa vào đó mà thủ lợi.
– Kế “Vô trung sinh hữu” hình dung là tu hú đẻ nhờ, tổ thì chim khác làm, nhưng con tu hú cứ đến đặt trứng của nó vào đó, rồi lại nhờ loài chim khác ấp trứng luôn, khi trứng nở thành chim, tu hú con bay về với bầy tu hú.

Ám độ Trần Thương

+ Giải nghĩa: Chọn con đường, cách thức tấn công mà không ai nghĩ tới
+ Điển cố: Thời Hán-Sở tranh hùng, Lưu Bang bị Hạng Vũ ép vào đóng quân trong vùng Ba Thục hẻo lánh khó ra được Trung Nguyên. Hàn Tín bèn bày kế vờ sửa đường sạn đạo nhưng lại ngầm dẫn quân đi đường núi hiểm trở để đánh úp ải Trần Thương, mở đường ra Trung Nguyên cho quân Hán.

Cách ngạn quan hỏa

+ Giải nghĩa: Đứng cách bờ để xem lửa cháy, để yên cho kẻ địch tự rối loạn
+ Điển cố: Sau Trận Quan Độ, Viên Thiệu đại bại trước Tào Tháo rồi chẳng bao lâu qua đời. Các con của Viên Thiệu là Viên Thượng, Viên Hy chạy tới nương nhờ Công Tôn Khang. Có người khuyên Tào Tháo thừa thắng tấn công để bắt nốt Viên Thượng, Viên Khang, Tào Tháo cho rằng không cần vội vì sớm muộn gì trong nội bộ địch cũng có loạn và rút quân. Quả nhiên Công Tôn Khang thấy Tào Tháo rút quân bèn chém đầu Viên Thượng, Viên Hy và xin hàng Tào Tháo. Ngày nay thường thấy là kế ‘Tự diễn biến’.

Tiếu lý tàng đao

+ Giải nghĩa: Cười nụ giấu dao, lập mưu kín kẽ không để kẻ địch biết
+ Điển cố: Tể tướng của Đường Huyền Tông là Lý Lâm Phủ có bề ngoài và xử sự hết sức hòa nhã, thân thiện nhưng thực chất lại là người cực kì nham hiểm, dùng mọi thủ đoạn để triệt hạ các đối thủ chính trị khác. Hành động của Lý Lâm Phủ về sau được mô tả bằng câu thành ngữ “Miệng nam mô, bụng bồ dao găm

Lý đại đào cương

+ Giải nghĩa: Mận chết thay đào, đưa người khác ra thế thân gánh vác tai họa cho mình
+ Điển cố: Thời Tam Quốc, Tào Tháo nghiêm cấm quân mình phá hại mùa màng dân chúng nếu không sẽ bị xử tội chém. Một lần dẫn quân qua ruộng lúa, con ngựa của Tào Tháo vì hoảng sợ mà dẫm nát một khoảnh lúa lớn. Tào Tháo hỏi quan giám sát về cách xử tội, quan giám sát nghị tội của Tào Tháo đáng chết nhưng tính mạng của thừa tướng đáng trọng hơn vì vậy chém tóc để thay thế. Từ đó quân lính của Tào Tháo sợ hãi luật lệ nghiêm minh mà tuân thủ kỉ luật.
+ Diễn giải:
– “Lý đại đào cương” là đưa cây lý chết thay cho cây đào. Người lớn làm họa, bắt người bé chịu tội thay. Có rất nhiều kẻ tác gian phạm tội lại bắt người khác thế thân.

Thuận thủ khiên dương

+ Giải nghĩa: Thuận tay bắt dê, phải tranh thủ nắm lấy cơ hội nằm trong tầm tay
+ Điển cố: Thời Tam Quốc Lưu Chương là thứ sử Ích Châu nhưng lại có tính tình nhu nhược. Gia Cát Lượng bèn khuyên Lưu Bị tận dụng mối quan hệ họ hàng xa để làm quen với Lưu Chương để rồi từ đó “thuận tay bắt dê” chiếm lấy Ích Châu làm chỗ dựa.
+ Diễn giải:
– Kế “Thuận thủ khiên dương” theo nghĩa đen là thuận tay dắt con dê về.
Sự việc trên đời, thiên biến vạn hóa rất kỳ diệu. Phải biết nắm lấy bất cứ cơ hội nào vụt hiện đến trước mắt, đó là những thâu hoạch, những cái lợi bất ngờ.

Đả thảo kinh xà

+ Giải nghĩa: Đánh cỏ động rắn, tấn công vào xung quanh kẻ địch khiến chúng hoảng sợ mà lộ diện

Tá thi hoàn hồn

+ Giải nghĩa: Mượn xác trả hồn, mượn thân xác khác để đưa hồn về
+ Điển cố: Thời Tam Quốc quân Tào Ngụy nhờ tài năng chỉ huy của Chung Hội và Đặng Ngải mà chiếm gần như toàn bộ nước Thục Hán. Đại tướng nhà Thục là Khương Duy bèn giả đầu hàng với hy vọng mượn xác trả hồn, lợi dụng quân Ngụy để khôi phục đất nước. Tuy nhiên mưu kế của Khương Duy không thành, ông bị giết còn nước Thục hoàn toàn mất về tay Tào Ngụy.
+ Diễn giải:
– Kế “Tá thi hoàn hồn” nghĩa là mượn xác để hồn về.
– Ý kế này chỉ rằng: Sau khi đã thất bại, buộc phải lợi dụng một lực lượng nào đó để khởi lên thi hành trở lại chủ trương của mình. Tuy nhiên, dùng kế này rất dễ đi vào con đường nguy hiểm, nếu sơ xuất thì tỷ như rước voi về giày mả tổ. Nếu mượn xác mà mượn ẩu thì chẳng khác gì vác xác chết về nhà.

Điệu hổ ly sơn

+ Giải nghĩa: Lừa cho hổ ra khỏi núi, khiến kẻ địch ra khỏi nơi ẩn nấp để dễ bề tấn công
+ Điển cố: Thời Tam Quốc Trương Phi được lệnh dẫn quân vào Ích Châu để hỗ trợ Lưu Bị. Trên đường tiến quân Trương Phi bị Nghiêm Nhan lợi dụng địa thế hiểm yếu để ngồi trong thành phòng thủ. Trương Phi bèn lập kế giả say dụ Nghiêm Nhan dẫn quân ra ngoài thành và đánh bại.
+ Diễn giải:
– Kế “Điệu hổ ly sơn” là nhử, dụ hay khuấy động làm cho con hổ ra khỏi rừng.
– Kế “Điệu hổ ly sơn” có hai lối: Một là nhử hổ ra khỏi rừng để dễ dàng giết hổ. Hai là đuổi hổ đi để dễ bắt giết những loại hồ ly vẫn dựa oai hổ mà hoành hành.

Dục cầm cố túng

+ Giải nghĩa: Muốn bắt thì phải thả
+ Điển cố: Thời Tam Quốc, Mạnh Hoạch làm phản khiến Thục Hán bất ổn. Để thu phục Mạnh Hoạch, Gia Cát Lượng đã bảy lần bắt, bảy lần thả (thất cầm thất túng, 七擒七纵) Mạnh Hoạch khiến Mạnh Hoạch đội ơn mà không dám làm phản nữa. Tào Tháo muốn dùng Quan Vũ để làm dũng tướng cho mình đã cấp cho Quan Vũ ngựa Xích Thố để Quan Vũ lên đường tìm huynh đệ Lưu Bị và Trương Phi; nhưng Quan Vũ chỉ cỡi ngựa đi một đoạn bèn quay lại trở về với Tào Tháo để nguyện ra trận chiến đấu trả ơn cho Tào Tháo.

Phao chuyên dẫn ngọc

+ Giải nghĩa: Ném gạch đưa ngọc đến, đưa miếng nhỏ ra để dụ địch nhằm đạt cái lợi lớn hơn

Cầm tặc cầm vương

+ Giải nghĩa: Bắt giặc bắt vua
+ Diễn giải:
– Kế “Cầm tặc cầm vương” là dẹp giặc phải bắt chúa giặc.
– Phương pháp bắt chúa giặc thật thiên biến vạn hóa, không cứ bằng sức mạnh hay bằng trí khôn. Các kế khác như “Điệu hổ ly sơn“, “Mỹ nhân kế” hay “Man thiên quá hải” đều có thể dùng cho kế “Cầm tặc cầm vương”. Để đối phó với một nhân vật anh hùng, thì dù một quả đạn mà giết hay dùng mỹ nhân kế mà nhử thì cũng như nhau.
– Nhưng đa số âm mưu cầm vương được hiệu quả bằng kích thích anh hùng và mỹ nhân kế. “Tự cổ anh hùng đa hiếu sắc” là vậy.
– Việt Vương thua trận rồi, mà chỉ dùng một nàng Tây Thi đã đủ giam cầm Phù Sai. Lý Viên muốn đoạt quyền của Xuân Thân Quân, nên đã cho cô em là Lý Yên sang làm tì thiếp. Đó là những cách gián tiếp để cầm vương.

Hỗn chiến kế

Phủ để trừu tân

+ Giải nghĩa: Rút củi đáy nồi, đánh tiêu hao hậu cần để làm quân địch dần phải thua
+ Điển cố: Trong trận Chi Lăng-Xương Giang, nghe tin có viện binh, nhiều tướng muốn đánh để hạ gấp thành Đông Quan. Tuy nhiên, theo ý kiến của Nguyễn Trãi, Lê Lợi cho rằng đánh thành lạ hạ sách vì quân trong thành đông, chưa thể lấy ngay được, nếu bị viện binh đánh kẹp vào thì nguy; do đó ông quyết định điều quân lên chặn đánh viện binh trước để nản lòng địch ở Đông Quan.
+ Diễn giải:
– Kế “Phủ để trừu tân” là bớt lửa dưới nồi, ý nghĩa là giải quyết trên căn bản một vấn đề, chủ ý không cho nó phát ra (bớt lửa cho nước khỏi trào).
– Khi có một việc đã bùng nổ ra rồi thì tìm cách làm cho nó dịu đi, không để nó tiếp tục ác liệt. Chỗ diệu dụng kế “Phủ để trừu tân” là không nghe thấy tiếng, không nhìn thấy hình, vô cùng như trời đất, khó hiểu như âm dương, khiến cho kẻ thù rơi vào kế của mình mà họ không biết.
– Không kể tình trường, chiến trường hay thương trường, kế “Phủ để trừu tân” lúc nào cũng là kế rất âm độc, lớn mang hiệu quả lớn, nhỏ có hiệu quả nhỏ. Ở tình trường, anh chàng kém vế thường o bế song thân hoặc anh em của đào, hơn là tấn công chính nàng! Ở chiến trường, kế “Phủ để trừu tân” lại càng dày đặc, giăng mắc như mạng nhện.

Hỗn thủy mạc ngư

+ Giải nghĩa: Đục nước bắt cá, lợi dụng tình thế để ra tay đạt mục đích
+ Điển cố: Trong Trận Phì Thủy, sau khi nhận thấy quân Tần rối loạn sau đợt tấn công phủ đầu của quân Tấn, Tạ Huyền quyết định tận dụng thời cơ tung toàn lực tấn công, kết quả là quân Tần đại bại dù đông quân gấp 10 lần quân Tấn.

Kim thiền thoát xác

+ Giải nghĩa: Ve sầu lột xác, sử dụng bộ dạng mới để làm quân địch bất ngờ trở tay không kịp
+ Diễn giải:
– Kế “Kim thiền thoát xác” là con ve sầu vàng lột xác.
– Kế này dùng cho lúc nguy cấp, tính chuyện ngụy trang một hình tượng để lừa dối, che mắt đối phương, đặng đào tẩu chờ một cơ hội khác. Kế “Kim thiền thoát xác” có một phạm vi rất rộng rãi và phổ biến, bất cứ ai ở hoàn cảnh nào cũng có thể sử dụng được.

Quan môn tróc tặc

+ Giải nghĩa: Đóng cửa bắt giặc, dồn giặc vào thế bí không thể chạy thoát
+ Điển cố: Thời Chiến Quốc, Tôn Tẫn và Bàng Quyên ban đầu là hai học trò cùng thầy Quỷ Cốc tử, nhưng sau đó trở thành cừu thù và là địch thủ chính của nhau trên chiến trường. Trong trận chiến quyết định, Tôn Tẫn sai quân Tề dùng kế rút bếp để lừa Bàng Quyên và quân Ngụy tiến sâu vào đường hẻm Mã Lăng. Khi toàn bộ quân Ngụy đã rơi vào bẫy phục kích, Tôn Tẫn sai bịt đường hẻm và bắn tên, quân Ngụy đại bại, Bàng Quyên cũng bỏ mạng trong đám loạn tên.

Viễn giao cận công

+ Giải nghĩa: Xa thì giao thiệp, gần thì dùng vũ lực
+ Điển cố: Thời Chiến Quốc, tể tướng nước Tần là Phạm Thư đề ra kế viễn giao cận công, theo đó với các nước gần, Tần sẽ dùng vũ lực uy hiếp, chiếm thành chiếm đất, với các nước xa không đem quân đi được thì lại dùng ngoại giao dụ dỗ làm đồng minh. Cứ như vậy Tần nhanh chóng trở thành bá chủ của cả 6 nước chư hầu, tạo điều kiện cho Doanh Chính thống nhất Trung Quốc sau đó.

Tịnh chiến kế

Giả đồ phạt Quắc

+ Giải nghĩa: Mượn đường diệt Quắc, lợi dụng hòa hoãn địch để rồi quay lại tấn công bằng lợi thế do chính địch tạo ra cho mình
+ Điển cố: Tấn Hiến công theo lời Tuân Tức mang đồ vàng ngọc hối lộ nước Ngu với lý do mượn đường nước Ngu để đánh nước Quắc, thực chất là Tấn Hiến công sợ Ngu sẽ sai quân cứu nước Quắc. Sau khi Tấn đánh tan nước Quắc, Ngu chỉ còn trơ trọi một mình, Tấn Hiến Công bèn đem quân quay về diệt nốt nước Ngu.

Thâu lương hoán trụ

+ Giải nghĩa: Trộm rường thay cột, phá hủy cơ sở của địch

Chỉ tang mạ hòe

+ Giải nghĩa: Chỉ cây dâu để mắng cây hòe, còn có biến thể khác là chỉ chó mắng mèo, tấn công gián tiếp kẻ địch thông qua một trung gian khác
+ Điển cố: Thời Tam Quốc trong lúc Tào Tháo đang đem quân đi đánh Viên Thuật thì lương thảo thiếu thốn, binh lính kêu than. Thấy vậy Tào Tháo mới lập kế đổ tội cho quan coi lương Vương Hậu là lừa dối trong cấp phát lương rồi chém lấy đầu Vương Hậu. Quân Tào từ đấy sợ không dám kêu ca nữa mà hết lòng đánh Viên Thuật.
+ Diễn giải:
– Kế “Chỉ tang mạ hòe” là chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe. Ý nói vì không tiện mắng thẳng mặt nên mượn một sự kiện khác để tỏ thái độ.

Giả si bất điên

+ Giải nghĩa: Giả ngu chứ không điên, làm cho quân địch coi thường mình mà không đề phòng
+ Điển cố: Thời nhà Tống, Nùng Trí Cao tự xưng đế ở phương Nam, hoàng đế nhà Tống phái quân đánh nhiều lần không được. Đại tướng Địch Thanh bèn bày kế giả đò sợ hãi làm quân của Nùng Trí Cao lơi là phòng bị, tức thì quân Tống tấn công đánh bại quân Nùng Trí Cao.

Thượng ốc trừu thê

+ Giải nghĩa: Lên nhà rút thang, còn có biến thể khác là qua cầu rút ván (tức Qúa giang trừu bản)

Thụ thượng khai hoa

+ Giải nghĩa: Trên cây hoa nở
+ Điển cố: Khi Tôn Tẫn tới nước Yên làm Quân Sư, để đối phó với sự tấn công của Bàng Quyên, Tôn Tẫn đã bày mưu cho thái tử nước Yên Kế này. Với số quân ít ỏi khi ra đối phó với Bàng Quyên Thái tử đã cho binh sĩ chặt những cành cây kéo lê trên đường hành quân làm bụi tung mù mịt khiến mật thám của Bàng Quyên nghĩ rằng quân đội nước Yên đông gấp 10 lần do thám ban đầu. Bởi vậy Bàng Quyên đã rút quân.

Phản khách vi chủ

+ Giải nghĩa: Từ chỗ là khách biến thành vai chủ, lấn dần dần đất của địch để đến chỗ địch không còn chỗ đứng
+ Điển cố: Trong chiến dịch chiếm Hán Trung của Lưu Bị, Pháp Chính đã quân sư cho Hoàng Trung dùng kế phản khách vi chủ để cuối cùng chém chết được đại tướng của Tào Ngụy là Hạ Hầu Uyên.
+ Diễn giải:
– Kế “Phản khách vi chủ” là đổi địa vị khách thành địa vị chủ.
– “Phản khách vi chủ” là trong đấu tranh đang ở vào thế bị động nên phải tìm kế hoạch đến chủ động, khách vốn là địa vị bị chi phối, mọi việc đều do chủ đặt định sắp xếp. “Phản khách vi chủ” là nguyên tắc thường dùng trong đấu tranh. Có chủ động mới khống chế được cục diện. Không có chủ động, không thể thắng lợi.

Bại chiến kế

Mỹ nhân kế

+ Giải nghĩa: Dùng gái đẹp để làm rối loạn quân địch
+ Điển cố: Thời Xuân Thu, Câu Tiễn nước Việt bị Ngô vương Phù Sai đánh cho suýt mất nước. Phạm Lãi và Văn Chùng bèn hiến kế cho Câu Tiễn dâng mỹ nhân nổi tiếng của nước Việt là Tây Thi cho Phù Sai khiến Ngô vương vì đam mê tửu sắc mà bỏ bê việc chính sự, tạo thời cơ cho Câu Tiễn trả thù.
+ Diễn giải:
– “Mỹ nhân kế” là dùng gái đẹp để làm xoay chuyển, thay đổi tình thế mà những cái khác không thể thực hiện được. Giai nhân từ ngàn xưa đến nay bao giờ cũng là đề tài chính. Tuy là phái yếu, không thể vác gươm đao mà đánh giặc, nhưng các nàng có thể thắng được bằng đôi mắt biếc và nụ cười xinh đẹp.
– Có những bức thành kiên cố cả mười vạn quân không hạ nổi, nhưng nó có thể bị sụp đổ bởi ánh mắt mỹ nhân. Sức mạnh của mỹ nhân đặc biệt là có ảnh hưởng đối với người anh hùng, người có quyền thế.

Không thành kế

+ Giải nghĩa: Trong hoàn cảnh thành không có quân lại bị quân địch uy hiếp thì phải dùng những hành động kì lạ, trầm tĩnh khiến quân địch khiếp sợ tưởng có mai phục mà bỏ đi
+ Điển cố: Kế này gắn liền với điển cố về Gia Cát Lượng trong Tam quốc diễn nghĩa. Theo đó trong lúc Gia Cát Lượng đang giữ ngôi thành trống không có phòng thủ thì Tư Mã Ý bất chợt kéo quân đến. Đánh vào tính đa nghi của Tư Mã Ý, Gia Cát Lượng đã sai mở toang cổng thành, trên tường thành chỉ cắm tinh kỳ, lại sai người quyét dọn trước cổng làm như không có sự đe dọa của quân Ngụy. Cuối cùng Tư Mã Ý vì nghi ngờ mưu kế của Gia Cát Lượng nên đã rút quân, bỏ lỡ cơ hội ngàn năm có một để bắt sống địch thủ chính trên chiến trường.
+ Diễn giải:
– “Không thành kế” là kế bỏ thành trống, thành bỏ ngỏ. Kế này có hai loại:
– Một là lúc tình thế cực khẩn cấp, nguy hiểm như treo trên sợi tóc, buộc phải dùng nghi binh để lừa dối đối phương mà dựa vào đó để trốn thoát.
– Hai là rút lui với đầy đủ kế hoạch dụ cho địch quân xâm nhập rồi mới bao vây tiêu diệt.
– “Không thành kế” thực ra là một cách tạo nghi âm cho đối phương, mục đích là không cho đối phương sớm có một quyết định.

Phản gián kế

+ Giải nghĩa: Lợi dụng kế của địch để biến thành kế của mình
+ Điển cố: Thời Tam Quốc, Tào Tháo phái Tưởng Cán, bạn học cũ của Chu Du sang Đông Ngô để dò xét lực lượng đối phương. Chu Du đoán được mưu của Tào Tháo nên đã sử dụng chính Tưởng Cán để làm Tào Tháo nghi ngờ hai hàng tướng cực kì thông thạo thủy binh của Kinh Châu để rồi giết hai người đó.
+ Diễn giải:
– “Phản gián kế” là dùng người của đối phương lừa dối đối phương, dùng kế địch lừa địch.
– Tôn Tử nói: “Biết mình là biết thực lực và nhiệm vụ của mình. Biết người là biết thực lực và ý đồ của địch. Biết mình thì tương đối dễ hơn biết người. Cho nên muốn biết người thì phải dùng gián điệp”.

Khổ nhục kế

+ Giải nghĩa: Tự làm mình khổ nhục để đánh lừa quân địch
+ Điển cố: Câu Tiễn sau khi thất bại trước Phù Sai thì hết lòng tận tụy phục vụ Phù Sai như người hầu, thậm chí nếm cả chất thải của Phù Sai để giúp thầy thuốc khám bệnh cho Phù Sai, tất cả chỉ để che giấu sự chuẩn bị trả thù của nước Việt.
+ Diễn giải:
– “Khổ nhục kế” là hành hạ mình, rồi đem cái thân xác bị hành hạ ấy để làm bằng chứng mà tiếp cận với địch để hoàn thành một âm mưu nào đó.

Liên hoàn kế

+ Giải nghĩa: Sử dụng nhiều kế liên tiếp, muốn chiến thắng phải biết móc nối nhiều kế với nhau
+ Điển cố: Liên hoàn kế gắn liền với giai thoại về Vương Doãn do La Quán Trung kể lại trong Tam quốc diễn nghĩa. Vì thấy Đổng Trác quá bạo ngược hung tàn nên Vương Doãn sử dụng liên hoàn kế trong đó có mỹ nhân kế gửi Điêu Thuyền vào chia rẽ hai bố con nuôi Đổng Trác và Lã Bố, sau đó dùng kế đục nước bắt cá khơi gợi ở Lã Bố sự thù địch với cha nuôi để rồi cuối cùng chính Lã Bố cầm kích đâm chết Đổng Trác.
+ Diễn giải:
– “Liên hoàn kế” là nối liền với nhau thành một dây xích.
– “Liên hoàn kế” còn là vận dụng một quyền thuật để tạo phản ứng dây chuyền cho đối phương hoặc gây thành phản ứng nhiều mặt. Mỹ nhân kế là vũ khí phổ biến nhất cần thiết cho việc dùng “Liên hoàn kế”. Vì người đẹp ví như nước, anh hùng ví như bùn, nước làm cho bùn nhão ra. Từ ngàn xưa, đa số anh hùng đã vì thương hoa tiếc ngọc nên bỏ lãng nhiệm vụ. Tuy vậy, vẫn phải phân biệt “Mỹ nhân kế” với “Liên hoàn kế”.
– Liên hoàn kế là một hình ảnh của thực tiễn, bất cứ việc gì xảy ra cũng gây thành phản ứng dây chuyền. Việc xảy ra hôm nay cũng không tự dưng mọc ra, nó phải là kết quả dây chuyền từ những sự việc trước.

Tẩu vi thượng sách

+ Giải nghĩa: Gặp kẻ địch mạnh thì kế chuồn là thích hợp hơn cả trong 36 kế
+ Diễn giải:
– “Tẩu kế” nghĩa là chạy, lùi, thoát thân.
– Tại sao kế sau chót cổ nhân lại đặt là “kế chạy“? Lại có câu: “Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách“. (Ba mươi sáu chước, chạy là hơn hết!)
– Bởi vậy kế này liên quan nhiều đến sự thành bại của một công việc lớn. Bất luận là đánh nhau bằng văn hay bằng võ, không ai là có thể thắng hoài. Trong quá trình chiến đấu bao gồm nhiều kiểu thắng, nhiều kiểu bại, lúc ẩn lúc hiện, trong chớp mắt dồn dập cả trăm ngàn biến chuyển. Nếu không ứng phó mau lẹ để tránh những cảnh bất lợi, để nắm mau lợi thế mà tiến tới thắng lợi, thì không phải là nhân tài.
– Chạy có nhiều phương thức: Bỏ giáp, bỏ vũ khí mà chạy, bỏ đường nhỏ mà chạy tới đường lớn, bỏ đường bộ mà chạy sang đường thủy… Các phương thức tuy không giống nhau nhưng cùng hướng chung đến mục đích là tránh tai họa để bảo đảm an toàn, để bảo toàn lực lượng.
– “Tẩu kế” không phải là chạy dài. Chạy chỉ là một giải pháp để mà sẽ quay lại. Tinh hoa của kế chạy là giành thời gian, bảo tồn sức khỏe, lực lượng. Rút chạy đến một vị trí mới, cho tư thế vững mạnh hơn, tập trung nỗ lực và củng cố tinh thần, chọn một cơ hội thuận tiện để quật lại, ấy mới thực là “Tẩu kế”.
– Sau hết phải lo đến điểm nguy của kế chạy: Khi chạy, sẽ mất tinh thần, sự việc hoàn toàn lỏng lẻo, mất sự tin tưởng ở xung quanh. Nếu không giải quyết cho chính xác những vấn đề trên thì “tẩu” không còn là một kế hoạch nữa, mà là một sự tan rã vậy!